Trong lúc mang thai do sức đề kháng kém. Do vậy, những người mang thai lần đầu hoặc mang thai trong 3 tháng đầu của thai kỳ sẽ có nguy cơ bị nhiễm ký sinh trùng sốt rét cao hơn so với những phụ nữ khác sống cùng khu vực.
- Trình dược viên liệt kê những loại chất béo giúp kéo dài tuổi thọ
- Chế độ ăn uống cần thiết cho bệnh nhân bị gút
Vì vây,Trong các vùng đang có sốt rét, nếu phụ nữ mang thai không được bảo vệ và phòng ngừa tốt rất dễ có nguy cơ mắc bệnh sốt rét sẽ gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến cả mẹ lẫn thai nhi.
Theo các Dược sĩ Cao đẳng Y dược TPHCM, trong các vùng sốt rét lưu hành, nếu phụ nữ mang thai không được bảo vệ và phòng ngừa tốt rất dễ có nguy cơ mắc bệnh sốt rét. Khi bị mắc bệnh sốt rét sẽ ảnh hưởng đến sức khỏe kể cả tính mạng của bà mẹ lẫn thai nhi. Đặc biệt, sốt rét ở phụ nữ có thai trong những tháng đầu làm gia tăng nguy cơ sảy thai một cách đáng kể, nhưng nếu được điều trị sốt rét thì sẽ tương đối an toàn và làm giảm nguy cơ này.
Phụ nữ mang thai mắc sốt rét cần được điều trị làm giảm nguy cơ sảy thai.
Điều trị đúng để giảm nguy hiểm
Chẩn đoán sớm và điều trị kịp thời đúng theo phác đồ quy định của Bộ Y tế ban hành sẽ giảm tối thiểu sốt rét thể thông thường chuyển thành sốt rét ác tính:
Các Dược sĩ Trung cấp Dược TPHCM chia sẻ
Sốt rét thể thông thường: Thai phụ mắc sốt rét dễ bị thiếu máu, hạ đường huyết, phù phổi cấp. Việc điều trị phải nhanh chóng và hiệu quả, nếu chậm trễ sẽ dễ chuyển thành sốt rét ác tính. Cần chú ý phân loại theo thời kỳ mang thai để xử trí phù hợp:
Phụ nữ mang thai trong 3 tháng đầu: Nếu nhiễm ký sinh trùng Plasmodium falciparum thì dùng thuốc: Quinin sulfat với liều lượng 30mg/kg/ngày, chia 3 lần uống trong ngày, dùng trong 7 ngày; kết hợp clindamycin với liều 15mg/kg/ngày, chia 3 lần uống trong ngày, dùng trong 7 ngày.
Nếu nhiễm ký sinh trùng Plasmodium vivax, dùng thuốc chloroquin phosphate 250mg (mỗi viên chứa 150mg chloroquin base): tổng liều 25mg base/kg chia để uống trong 3 ngày.
Phụ nữ mang thai trên 3 tháng: Nếu nhiễm chủng loại ký sinh trùng Plasmodium falciparum thì dùng thuốc dihydroartemisinin phối hợp piperaquin (biệt dược là arterakine, CV artecan) uống trong 3 ngày. Ngày đầu uống 4 viên, chia 2 lần uống cách nhau 8 giờ. Ngày thứ hai (cách 24 giờ) uống 2 viên. Ngày thứ ba (cách 48 giờ) uống 2 viên.
Nếu nhiễm ký sinh trùng Plasmodium vivax, dùng thuốc chloroquin phosphate 250mg (mỗi viên chứa 150mg chloroquin base) với tổng liều 25mg base/kg chia để uống trong 3 ngày.
Chú ý không được sử dụng thuốc primaquin liều duy nhất để điều trị diệt thể giao bào chống lây lan của KST Plasmodium falciparum và liều 14 ngày để điều trị tiệt căn chống tái phát xa của KST Plasmodium vivax ở đối tượng phụ nữ có thai mắc sốt rét vì thuốc có ảnh hưởng xấu đến thai nhi.
Sốt rét ác tính, thai phụ phải được tích cực điều trị diệt KSTSR kết hợp điều trị triệu chứng, biến chứng. Việc điều trị đặc hiệu cũng được thực hiện tùy theo thời kỳ mang thai:
Phụ nữ mang thai trong 3 tháng đầu: Dùng thuốc quinin dihydro chloride: 30mg/kg/ngày, truyền tĩnh mạch trong những ngày đầu; những ngày sau đó thai phụ khỏe có thể uống được thì chuyển sang dùng quinin sulfat uống cho đủ 7 ngày của liệu trình điều trị. Đồng thời phối hợp thêm thuốc clindamycin 15mg/kg/ngày cũng dùng trong 7 ngày.